
Giỗ Tổ Hùng Vương: Niềm Tự Hào Dân Tộc, Khúc Ca Nguồn Cội Vang Mãi Ngàn Năm
Tiếng Gọi Nguồn Cội – Triệu Trái Tim Hướng Về Đất Tổ
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao ấy tự bao đời đã thấm sâu vào tâm thức mỗi người con đất Việt, như một lời nhắc nhở thiêng liêng, một tiếng gọi thiết tha từ nguồn cội. Cứ mỗi độ tháng Ba âm lịch về, hàng triệu trái tim người Việt Nam trên khắp mọi miền Tổ quốc và cả kiều bào xa xứ lại cùng chung một nhịp đập, cùng hướng về vùng Đất Tổ Phú Thọ linh thiêng, hướng về Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Đó không chỉ là một cuộc hành hương về địa lý, mà còn là một cuộc hành hương về tâm linh, về với cội nguồn dân tộc.
Không khí của ngày Quốc Giỗ thật đặc biệt, là sự hòa quyện giữa niềm thành kính, trang nghiêm của phần lễ và không khí tưng bừng, náo nhiệt, vui tươi của phần hội. Dòng người hành hương về Đền Hùng mang theo lòng biết ơn sâu sắc, tưởng nhớ công lao trời biển của các Vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước, những vị vua đầu tiên khai sinh ra dân tộc Việt Nam. Giỗ Tổ Hùng Vương không chỉ là một ngày lễ kỷ niệm lịch sử đơn thuần, mà đã trở thành một biểu tượng sống động của tinh thần đại đoàn kết, một điểm tựa văn hóa, một sợi dây tâm linh kết nối cộng đồng, định hình nên bản sắc và tâm hồn Việt Nam. Sự trường tồn của câu ca dao “Dù ai đi ngược về xuôi…” qua bao thế hệ chính là minh chứng cho sức mạnh của truyền khẩu và thi ca dân gian trong việc lưu giữ và lan tỏa những giá trị cốt lõi, biến khái niệm trừu tượng “nguồn cội dân tộc” trở nên gần gũi, thân thương và ăn sâu vào tiềm thức mỗi người. Sự song hành giữa không khí trang nghiêm của nghi lễ và niềm vui hân hoan của lễ hội cũng phản ánh một cách nhìn nhận sâu sắc về quá khứ: vừa kính cẩn tri ân nền tảng cha ông gây dựng, vừa tự hào, phấn khởi về sức sống mãnh liệt của dân tộc hôm nay.
Lật Trang Sử Vàng: Từ Huyền Thoại Đến Ngày Quốc Lễ
Hành trình tìm về cội nguồn đưa chúng ta ngược dòng thời gian, trở về với buổi bình minh của dân tộc, nơi huyền thoại và lịch sử hòa quyện, dệt nên những trang sử vàng chói lọi. Truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” kể rằng, Thủy tổ Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân, thuộc giống Rồng, kết duyên cùng Âu Cơ, thuộc giống Tiên. Mối duyên Tiên – Rồng ấy đã sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành một trăm người con, khởi nguồn cho Bách Việt.
Tuy nhiên, do khác biệt về môi trường sống, Lạc Long Quân và Âu Cơ đành chia tay, năm mươi người con theo mẹ lên núi, năm mươi người con theo cha xuống biển, khai sơn phá thạch, mở mang bờ cõi. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu (Phú Thọ ngày nay), được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập nên nhà nước Văn Lang – nhà nước sơ khai của dân tộc Việt Nam. Triều đại Hùng Vương kéo dài 18 đời vua, một giai đoạn lịch sử đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc.
Các Vua Hùng đã dạy dân cày cấy, trồng lúa nước, trị thủy, chống giặc ngoại xâm, xây dựng một xã hội có tổ chức, đặt nền móng cho văn minh lúa nước rực rỡ. Mười tám đời vua Hùng nối nhau trị vì, mỗi đời mang một vương hiệu khác nhau, từ Hùng Hiền Vương (Lạc Long Quân) đến Hùng Duệ Vương cuối cùng. Sau đó, Hùng Vương thứ 18 đã nhường ngôi cho Thục Phán – An Dương Vương.
Ghi nhớ công đức khai thiên lập địa của các Vua Hùng, từ xa xưa, các triều đại phong kiến Việt Nam đã có tục lệ thờ cúng và tổ chức lễ giỗ tại Đền Hùng. Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức (vua Lê Thánh Tông, 1470) và được sao chép lại vào thời Lê Kính Tông (1601) đã ghi nhận việc hương khói tại đền thờ ở làng Trung Nghĩa (nay thuộc xã Hy Cương, Phú Thọ) từ thời Tiền Lê, Lý, Trần. Ban đầu, việc trông nom, cúng bái Đền Hùng được giao cho dân sở tại, đổi lại họ được miễn thuế và sưu dịch. Ngày Giỗ Tổ ban đầu được vua Lê Thánh Tông và Lê
Kính Tông chọn là ngày 11 và 12 tháng 3 âm lịch. Có tài liệu lại ghi việc tổ chức ngày giỗ Hùng Vương thứ 18 vào ngày 11 tháng 3 âm lịch.
Bước ngoặt quan trọng đến vào thời nhà Nguyễn. Năm Khải Định thứ 2 (1917), theo đề nghị của Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc, Bộ Lễ đã chính thức định ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Từ đó, ngày 10 tháng 3 trở thành ngày lễ chung thống nhất để cả nước cùng tưởng nhớ các Vua Hùng. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 22/SL-CTN ngày 18/02/1946, cho công chức nghỉ ngày 10 tháng 3 Âm lịch để tham gia các hoạt động Giỗ Tổ, thể hiện sự trân trọng của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với di sản của cha ông. Và kể từ năm 2007, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức công nhận Giỗ Tổ Hùng Vương là Quốc lễ, người lao động được nghỉ làm việc vào ngày này.
Quá trình hình thành và chuẩn hóa ngày Giỗ Tổ Hùng Vương từ các tục lệ địa phương đến một Quốc lễ thống nhất phản ánh sự phát triển và củng cố của nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, cùng với đó là sự định hình ngày càng rõ nét của một bản sắc dân tộc chung. Mỗi bước tiến trong việc chính thức hóa ngày lễ là một minh chứng cho vai trò của chính quyền trung ương trong việc xây dựng và lan tỏa một câu chuyện quốc gia thống nhất, lấy các Vua Hùng làm tâm điểm. Đồng thời, việc huyền thoại “Con Rồng Cháu Tiên” luôn song hành cùng lịch sử ngày lễ cho thấy một đặc trưng văn hóa Việt Nam: nơi huyền sử không tách rời lịch sử mà trở thành nền tảng tinh thần, lý giải nguồn gốc thiêng liêng và gắn kết mọi người dân Việt thành “đồng bào” – cùng chung một bọc.
Mạch Nguồn Yêu Nước: Ý Nghĩa Thiêng Liêng Của Ngày Giỗ Tổ
Giỗ Tổ Hùng Vương không chỉ là một ngày lễ mang tính nghi thức, mà còn kết tinh những giá trị tinh thần sâu sắc, là mạch nguồn nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước của mỗi người con Việt Nam.
Trước hết, đó là sự thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, một truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc. Ngày Giỗ Tổ là dịp để con cháu Lạc Hồng bày tỏ lòng thành kính, tri ân công đức của các Vua Hùng – những người đã đặt nền móng cho non sông gấm vóc Việt Nam.
Hướng về Đền Hùng là hướng về cội nguồn, về tổ tiên, nhắc nhở mỗi người về trách nhiệm tiếp nối và phát huy những di sản quý báu mà cha ông để lại.
Giỗ Tổ Hùng Vương còn là biểu tượng hùng hồn của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Vượt lên trên những khác biệt về vùng miền, tín ngưỡng hay hoàn cảnh sống, tất cả người Việt Nam đều có chung một Quốc Tổ – Vua Hùng. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trở thành điểm hội tụ tâm linh, là sợi dây vô hình gắn kết cộng đồng, củng cố tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau giữa những người “đồng bào”. Trong tâm thức người Việt, ngày Quốc Giỗ là chất keo gắn kết khối đại đoàn kết, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc thờ chung một vị Tổ quốc gia, thay vì chỉ thờ tổ tiên của từng dòng họ, là một nét độc đáo, tạo nên một hình thức thờ cúng tổ tiên ở quy mô quốc gia, biến lòng hiếu thảo thành nền tảng của tinh thần dân tộc.
Niềm tự hào dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ trong ngày Giỗ Tổ. Đặc biệt, vào ngày 6 tháng 12 năm 2012, UNESCO đã chính thức công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây không chỉ là niềm vinh dự của riêng tỉnh Phú Thọ mà còn là niềm tự hào chung của cả dân tộc Việt Nam. Sự công nhận này khẳng định giá trị độc đáo mang tầm toàn cầu của một tín ngưỡng đã tồn tại hàng ngàn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm của người Việt, khích lệ ý thức chung của các dân tộc trong việc tôn vinh và gìn giữ các giá trị văn hóa. Nó vừa là sự ghi nhận quốc tế, nâng cao vị thế văn hóa Việt Nam, vừa là động lực để thế hệ hôm nay tiếp tục trân trọng, bảo tồn và phát huy di sản quý báu này một cách bền vững.
Cuối cùng, Giỗ Tổ Hùng Vương là dịp để giáo dục lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân. Nhớ về công lao dựng nước và giữ nước của các Vua Hùng và các bậc tiền nhân, mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, càng thêm yêu quý, tự hào về non sông đất nước, ý thức rõ hơn về vai trò của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.
Đền Hùng Mùa Lễ Hội: Trang Nghiêm Phần Lễ, Tưng Bừng Phần Hội
Trung tâm của các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương là Khu di tích lịch sử Đền Hùng, tọa lạc trên núi Nghĩa Lĩnh uy nghiêm, thuộc địa phận thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Mỗi độ tháng Ba về, Đất Tổ lại chào đón hàng triệu lượt con dân từ khắp mọi miền đất nước và kiều bào ở nước ngoài hành hương về đây. Không khí nơi đây vừa linh thiêng, trầm mặc với khói hương nghi ngút, vừa rộn ràng, náo nức với các hoạt động lễ hội đa dạng, phong phú.
Theo thông lệ, Lễ hội Đền Hùng thường được tổ chức trong nhiều ngày, nhưng trọng tâm là ngày chính giỗ 10 tháng 3 âm lịch. Lễ hội bao gồm hai phần chính: Phần Lễ và Phần Hội. Việc Phần Lễ luôn được cử hành trước và trang trọng hơn Phần Hội thể hiện rõ nét đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” – sự thành kính với tổ tiên là nền tảng cho mọi niềm vui và sự phát triển của cộng đồng.
Phần Lễ: Nghi Thức Trang Trọng Hướng Về Nguồn Cội
Phần Lễ được tiến hành với các nghi thức truyền thống, thể hiện lòng thành kính và biết ơn sâu sắc đối với công đức của các Vua Hùng và các bậc tiền nhân.
- Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng: Đây là nghi lễ trọng tâm, diễn ra vào sáng sớm ngày 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Thượng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh. Đoàn đại biểu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tỉnh Phú Thọ cùng đông đảo nhân dân và du khách thập phương thành kính dâng hương, hoa, lễ vật, cầu mong quốc thái dân an, đất nước thái bình, thịnh vượng. Không khí buổi lễ vô cùng trang nghiêm, thành kính. Trước đó, vào ngày 6 thán 3 âm lịch, diễn ra Lễ giỗ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và Lễ dâng hương tưởng niệm Tổ Mẫu Âu Cơ tại các đền thờ riêng trong khu di tích. Từ ngày 1 đến 5 tháng 3, các đoàn đại biểu từ các huyện, thị xã trong tỉnh cũng lần lượt về dâng hương.
- Lễ rước kiệu: Là một nghi thức cộng đồng đặc sắc, thể hiện sự tôn vinh các Vua Hùng và tinh thần đoàn kết làng xã. Các đoàn rước kiệu của các xã, phường vùng ven Khu di tích như Hy Cương, Chu Hóa, Hùng Lô… với những cỗ kiệu được sơn son thếp vàng lộng lẫy, trang trí cờ hoa, ô lọng rực rỡ, cùng đội nhạc lễ, trang phục truyền thống tiến về Đền Hùng. Nghi lễ này thường diễn ra vào các ngày trước chính lễ (như mùng 7 hoặc mùng 9 tháng 3) , tạo nên một quang cảnh vừa uy nghiêm vừa náo nhiệt, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân.
- Lễ vật dâng cúng: Lễ vật dâng lên các Vua Hùng mang đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam. Không thể thiếu là cặp bánh chưng, bánh dày – lễ vật gắn liền với truyền thuyết về hoàng tử Lang Liêu đời Hùng Vương thứ 6. Bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho Đất; bánh dày hình tròn, tượng trưng cho Trời. Câu chuyện Lang Liêu dung chính những sản vật nông nghiệp gần gũi (gạo nếp, đỗ xanh) để làm nên lễ vật ý nghĩa dâng vua cha, qua đó được chọn nối ngôi, không chỉ giải thích nguồn gốc hai loại bánh mà còn đề cao giá trị của lao động nông nghiệp, lòng hiếu thảo và sự trân trọng đối với đất trời, tổ tiên.
Chính sự giản dị mà hàm chứa triết lý sâu sắc này đã giúp bánh chưng, bánh dày vượt qua sơn hào hải vị để trở thành lễ vật thiêng liêng nhất. Ngoài ra, lễ vật còn có hương, hoa, ngũ quả, trầu cau, rượu và các sản vật địa phương như xôi, gà trống thiến, lợn đen… thể hiện tấm lòng thành kính và sản vật phong phú của vùng Đất Tổ. - Lễ tế: Do các bậc cao niên, chức sắc trong các làng xã hoặc ban tế lễ thực hiện theo nghi thức cổ truyền, với trang phục trang trọng, đọc văn tế ca ngợi công đức Vua Hùng và cầu mong những điều tốt đẹp cho đất nước, nhân dân.
Phần Hội: Tưng Bừng Sức Sống Văn Hóa Đất Tổ
Sau phần Lễ trang nghiêm là Phần Hội với không khí vui tươi, sôi động, thể hiệnsức sống văn hóa mãnh liệt của vùng Đất Tổ và dân tộc Việt Nam.
- Biểu diễn nghệ thuật truyền thống: Du khách được thưởng thức những làn điệu Hát Xoan mượt mà, đằm thắm – di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận, hường diễn ra tại các đình làng cổ hoặc sân khấu trong khu di tích. Bên cạnh đó là các màn trình diễn múa rối nước, hát Quan họ, các tiết mục ca múa nhạc dân tộc, biểu diễn trống đồng, đâm đuống….
- Trò chơi dân gian: Sân lễ hội trở nên náo nhiệt với các trò chơi truyền thống như đấu vật, kéo co, bơi chải trên hồ Công viên Văn Lang, đánh đu, ném còn, cờ tướng… thu hút sự tham gia và cổ vũ nhiệt tình của người dân và du khách.
- Hội thi đặc sắc: Hội thi gói, nấu bánh chưng và giã bánh dày là hoạt động độc đáo, tái hiện lại câu chuyện Lang Liêu và tôn vinh nghề nông, sản vật địa phương.
- Hội trại văn hóa và triển lãm: Các trại văn hóa của các huyện, thành, thị trong tỉnh Phú Thọ được dựng lên, trưng bày các sản phẩm đặc trưng (OCOP), mô hình kiến trúc, giới thiệu nét văn hóa độc đáo của từng địa phương. Các triển lãm về di sản văn hóa thời đại Hùng Vương, sách báo, tư liệu lịch sử cũng được tổ chức tại Bảo tàng Hùng Vương và các địa điểm khác.
- Hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch hiện đại: Những năm gần đây, Phần Hội còn được làm phong phú thêm bởi các chương trình nghệ thuật quy mô lớn với chủ đề hướng về cội nguồn, màn bắn pháo hoa tầm cao rực rỡ , các giải đấu thể thao như Giải bóng chuyền Cúp Hùng Vương, Giải Marathon “Về nguồn”, Giải Golf “Uống nước nhớ nguồn”… , cùng các hoạt động quảng bá du lịch Đất Tổ.
Từ Đất Tổ Linh Thiêng Đến Mọi Miền Đất Nước và Thế Giới
Mặc dù Khu di tích lịch sử Đền Hùng ở Phú Thọ là trung tâm của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, nhưng tinh thần và không khí của ngày Quốc Giỗ lại lan tỏa mạnh mẽ trên khắp mọi miền Tổ quốc và vươn ra cả thế giới, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống.
Tại Thủ đô Hà Nội, dù không có Đền Hùng gốc, nhưng không khí tưởng nhớ tổ tiên vẫn hiện hữu. Nhiều người dân Thủ đô và các vùng lân cận thường chọn dịp nghỉ lễ Giỗ Tổ để hành hương về Phú Thọ hoặc tham quan các điểm đến văn hóa, tâm linh gần Hà Nội như Chùa Hương, Làng cổ Đường Lâm, Làng gốm Bát Tràng. Các không gian công cộng như khu vực Hồ Gươm, phố cổ cũng trở nên nhộn nhịp hơn. Đặc biệt, lịch sử ghi nhận lễ Giỗ Tổ đầu tiên được tổ chức trọng thể tại Thủ đô là vào năm 1946, do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì lễ tế, khẳng định tầm vóc quốc gia của ngày lễ.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, ngày Giỗ Tổ cũng được tổ chức long trọng. Trung tâm là Đền tưởng niệm các Vua Hùng tại Công viên Lịch sử – Văn hóa Dân tộc (Thành phố Thủ Đức), nơi diễn ra các nghi lễ dâng hương, dâng lễ vật (bánh chưng, bánh dày), diễu hành rước lễ với sự tham gia của lãnh đạo thành phố và đông đảo người dân. Bên cạnh đó, các địa điểm khác như Đền thờ Vua Hùng trong Thảo Cầm Viên Sài Gòn, Đền tưởng niệm tại Công viên Tao Đàn cũng là nơi người dân đến dâng hương, tưởng nhớ cội nguồn. Các khu vui chơi như Suối Tiên, Đầm Sen cũng tổ chức các hoạt động văn hóa đặc sắc chào mừng ngày lễ.
Nhiều tỉnh thành khác trên cả nước, nơi có Đền thờ Vua Hùng hoặc các di tích liên quan đến thời đại Hùng Vương như Cần Thơ, Bình Dương, Khánh Hòa, Gia Lai, Thừa Thiên Huế… cũng tổ chức các nghi lễ dâng hương, tế lễ theo nghi thức truyền thống địa phương. Những địa phương không có đền thờ cũng hưởng ứng bằng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao mang chủ đề hướng về cội nguồn. Sự hiện diện của các Đền Hùng và các hoạt động tưởng niệm ở nhiều địa phương cho thấy sự lan tỏa mạnh mẽ của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chung, giúp người dân ở xa vẫn có thể thực hành nghi lễ thiêng liêng, trong khi vẫn luôn tâm niệm hướng về Đất Tổ Phú Thọ.
Đặc biệt, ý nghĩa của ngày Giỗ Tổ còn vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (kiều bào) tại khắp năm châu như Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nga, Lào, Thái Lan, Malaysia, Séc, Ba Lan, Slovakia… đều thành kính tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Đây là dịp vô cùng quan trọng để bà con xa xứ thể hiện lòng tri ân công đức tổ tiên, duy trì sợi dây kết nối văn hóa với quê hương, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên ở nước ngoài.
Các buổi lễ Giỗ Tổ ở nước ngoài thường quy tụ đông đảo cộng đồng người Việt và cả bạn bè quốc tế, góp phần quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam và thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng người Việt xa quê. Hàng năm, Nhà nước cũng tổ chức các đoàn kiều bào tiêu biểu về nước tham dự Lễ Giỗ Tổ tại Đền Hùng, thể hiện sự quan tâm và gắn kết với những người con đất Việt đang sinh sống xa Tổ quốc. Sự đồng lòng hướng về ngày Quốc Giỗ của người Việt trên toàn thế giới là minh chứng sống động cho sức mạnh của văn hóa và tinh thần dân tộc, một bản sắc chung không thể phai mờ dù ở bất cứ đâu.
Hồn Thiêng Sông Núi – Mãi Vọng Ngàn Năm
Giỗ Tổ Hùng Vương – mùng 10 tháng 3 âm lịch – không chỉ là một ngày nghỉ lễ trong năm. Đó là ngày của nguồn cội, ngày của tinh thần dân tộc, ngày triệu triệu con tim Lạc Hồng cùng chung nhịp đập hướng về quá khứ hào hùng và tương lai tươi sáng. Ngày Quốc Giỗ là sự kết tinh của đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, là biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết, là niềm tự hào về một dân tộc có lịch sử hàng ngàn năm văn hiến.
Trong sâu thẳm tâm thức người Việt, hai tiếng “đồng bào” thiêng liêng bắt nguồn từ huyền thoại mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng, luôn nhắc nhở về tình nghĩa ruột rà, máu mủ. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, với Đền Hùng là tâm điểm linh thiêng, chính là nơi nuôi dưỡng và củng cố tình cảm gắn bó máu thịt ấy.
Nhìn về quá khứ với lòng biết ơn các Vua Hùng và các bậc tiền nhân đã hy sinh xương máu để gây dựng và bảo vệ non sông , thế hệ hôm nay và mai sau càng ý thức rõ hơn trách nhiệm của mình. Việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, đặc biệt là Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương – Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, không chỉ là bảo tồn di sản cho riêng dân tộc mà còn là đóng góp vào kho tàng văn hóa chung của thế giới.
Ngày Giỗ Tổ cũng là dịp để mỗi người con đất Việt nuôi dưỡng khát vọng vươn lên, “hóa rồng” trong kỷ nguyên mới. Sức mạnh cội nguồn, tinh thần đoàn kết chính là hành trang quý báu để dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, xứng đáng với công lao của tổ tiên và sự hy sinh của các thế hệ đi trước.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba…”
Câu ca dao ấy sẽ còn vang vọng mãi, như hồn thiêng sông núi, như lời non nước ngàn năm,nhắc nhở cháu con Lạc Hồng muôn đời khắc ghi nguồn cội, đoàn kết một lòng, viết tiếp nhữngtrang sử vàng của dân tộc Việt Nam